Bài đăng nổi bật

Triết lý con rùa

  Thôi em về đi kẻo người ta giận Không cho sướng nữa, em lại buồn. Việc nhà, việc cửa để anh lo Dù già, dù yếu dưng còn sức Giỗ tết nọ kia ...

Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2016

Lộn Làng




Làng tôi bé như con ốc mút. Trước bến sau lại sông. Nó như khúc ruột thừa, đậu giữa ruột già và ruột non. Rất vô tích sự.

Nhưng theo những gì bố kể lại, thì làng tôi có đủ đặc trưng và phẩm chất của một làng quê Bắc bộ đơn thuần. Tức là có miếu thành hoàng, có cây đa, giếng nước và mái đình. Mỗi tội sau cải cách ruộng đất, rồi bài phong, đả thực thì những thứ kia tiệt đi cả. Đại khái thì miếu thành hoàng thành bãi cột trâu, giếng đình thành nơi thả cá, đa được ngả ra cho đống nhấm đêm đông, đình làng thành nhà kho hợp tác.

Nhẽ vì thế mà làng tôi ngày càng mạt. Chứ như xưa, vẫn theo những gì bố tôi biết thì trong tổng, làng tôi giàu và đẹp nhất. Lại có nhiều người đi ra, làm cả cách mạng, làm quan trên tỉnh và cả cho Tây.

Làng tôi có từ thời nào thì chẳng ai biết. Chỉ biết được lập nên bởi một ả liền bà. Khi bà chết đi thì có miếu ở chân cồn. Nhưng nhẽ là liền bà nên người ta không phong là thành hoàng, mà chỉ gọi là bà cô tổ. Miếu đó gọi là miếu bà cô tổ. Tôi gọi là miếu thành hoàng làng để cho sang, cho oách, không hơn.

Còn như đình làng, xưa chỉ là cột kèo bằng gỗ xoan, gỗ mít, mái lợp là rơm rạ, trống hoác hơ, mặt chính quay ra bến. Đó là nơi tụ bạ của ông lý và một lũ bần nông mỗi khi làng có việc. Hoặc chỉ là nơi người ta túm tụm sau những cữ cày bừa hay nằm khểnh dạng háng tè he những trưa hè. Mãi sau, đình mới được làm bằng gỗ lim và gạch nung, mái cất ngói âm dương óng ả. Đó là công của cụ Siêu, cự phú trong làng. Chả là cụ bỏ tiền cho làng làm đình mới, đổi lại, cụ thành ông lý. Danh hão thôi. Để cụ được gọi là ông lý Siêu.

Đấy, mọi thứ to nhớn và đẹp đẽ thế. Vậy mà trong một khúc rẽ định mệnh chông chênh của lịch sử, tất cả đã tan hoang. Chẳng còn sót lại gì, kể cả trong tâm tưởng.

Khi tôi lớn lên, làng tôi hẵng còn đẹp. Con đường chính kéo dài từ đầu đến cuối làng đỏ ối những hàng râm bụt, giậu cúc tần biếc xanh vương vấn bụi dây leo tơ trời vàng óng. Cả những thân cây rưới dại cổ thụ sù xì, bốn mùa cho quả chín mọng, ăn ngọt lật. Phía cuối sông, đầu bến, tre kẽo kẹt ru giấc mộng đêm hè. Trong các lối xóm, ngõ vào nhà thẳng tắp bởi những hàng rào chè mạn. Nhà kiểu cách xén tỉa phô trương, phường giá áo để um tùm, rậm rạp. Vườn ai nấy cũng biếc những màu xanh, ngăn cách bởi phên tre đan vội. Ẩn hiện trong đó là những mái ngói thâm nâu, những mái gianh mục mốc và những cư dân còi cọc lắm điều nhưng cũng rất đỗi thân yêu.

Còn như bây giờ, làng tôi khác lắm. Người ta đập hết những mái ngói thâm nâu mà xây nhà tầng chóp nhọn và dỡ hết mái gianh để thay vào đó là mái bằng bê tông chắc chắn như nhà tù. Con đường chạy dọc làng đẹp là thế, họ cũng đổ cấp phối đá răm. Những bờ rào dâm bụt, cúc tần, trà mạn phát tiệt đi cả, thay vào là tường gạch, tường vôi. Mà lại theo lối bần nông, mỗi nhà nhích ra một tý. Đường làng bỗng chốc thành con rắn hổ mang đang cố bò quanh co để lột xác vào mùa cải lão. Những bụi tre cuối sông đầu bến cũng thôi kẽo kẹt. Thay vào đó là tiếng kẽo kẹt của vó bè kéo cá mùa lụt. Và hơn tất cả, những cư dân ngày thêm còi cọc và phủ phê sự lắm điều nhiêu khê. Sự thân yêu may chăng chỉ còn gói ghém chút ít trong cái gọi là anh em, họ mạc.

Tôi chẳng biết buồn hay vui vì sự thay đổi của làng. Chỉ biết miếng đất quay mặt ra bến ngày xưa là đình, sau bao năm tan hoang đã được một ông trong làng cất nhà mái bằng nguy nga trên nền cũ. Ở chưa được năm thì mất chức chủ tịch xã và đi tù, con cái phiêu diêu ly tán cả. Nó trở thành nhà hoang, không ai dám ở. Tiền nhân ơi, quở phạt con cháu đến thế sao? Nỡ nào?

Giếng đình sao bao năm làm nơi nuôi cá, giờ cũng được nạo vét để cả làng tắm gội. Chỉ thương gốc đa già là không thể nào có lại được. Người ta trồng vào đó mấy gốc bàng lá đỏ. Mộ bà cô tổ cũng được dựng bia, bao tường. Mỗi tội ít thấy người khói hương trừ dịp thanh minh hay tết nhất.

Bỗng chốc, làng tôi trở thành làng văn hóa. Vì những thứ thay đổi kia hay làng tôi có văn hóa thật?. Thế còn những làng không được công nhận là văn hóa thì vô văn hóa hết sao? Hay chưa có văn hóa?. Tôi chịu. Bởi cái xứ sở này, họ phát kiến ra nhiều khái niệm và ý tưởng vĩ đại lắm, không ở đâu có và bì kịp. Người ta bắt đầu bàn chuyện phục dựng lại đình làng theo kiểu thày bói xem voi, cãi nhau lấy được. Chán chê thì mời trên tỉnh, trên huyện xuống tư vấn, tham mưu. Vẫn không xong. Người ta còn a lố a lồ cho tôi mời cả trung ương về nữa kia. Tôi chả dại.

Thế là tịt. Và để xứng danh là làng văn hóa, người ta đập nát cái nhà bê tông hoang hóa kia đi và thay vào đó bằng một cái nhà bê tông khác, nghễu nghện trên nền cũ. Trên biển đề: Nhà văn hóa thôn Phúc Hậu. Chả là làng tôi có tên Nôm là Phúc Hậu. Nhưng khốn thay, các cô dâu mới về làng lại đặt ra một cái tên khác rất ác là làng Hốc Hại. Là ăn hại đó, thưa các bạn. Bởi đàn ông làng tôi được mỗi cái nết quanh năm tứ tán làm thuê và rượu chè và đánh vợ.

Tôi may mắn thoát li. Mỗi bận nghĩ về làng là mỗi lần ái ngại. Nhưng đó vẫn là chốn tôi đi về và cũng có thể là nơi... an nghỉ.


Làng tôi lâu rồi không có hội
Trai đinh tứ tán tám phương
Gái gian díu theo phường đi mất nết
Đình chùa thánh phật liêu xiêu.

Làng tôi lâu rồi không có hội
Điệu hò đi cấy buông xuôi
Giăng vẫn sáng nhưng sen thời chết tiệt
Gầu sòng tát cạn thế tình mỉa mai.

Làng tôi lâu rồi không có hội
Yếm đào tơi tả giậu thưa
Mắt lúng liếng nhìn tơ hồng vương vãi
Trông ngóng người về xa xăm.

Làng tôi lâu rồi không có hội
Trống đình bục cả đai hường
Bô lão đêm về hay dạ cổ
Vàng son khóc nỗi hoài lang.

Làng tôi lâu rồi không có hội
Chuông chùa đánh tiếng than van
Người bỗng đâu kéo về như kiến cỏ
Phật buồn đời đổ bóng xuống lòng sông.

Làng tôi lâu rồi không có hội
Để tôi về tìm tôi
Tìm lại bà răng hạt na bỏm bẻm
Tìm em mũi dãi sụt sùi.

Làng tôi lâu rồi không có hội
Tôi đi hoang suốt cả tháng năm dài
Nụ hồng biếc tay không thèm hái
Biết để tặng ai?

Làng tôi lâu rồi không có hội
Tôi cũng không còn là tôi
Còn mỗi chút tình nhung nhớ
Nhưng làng tôi không có hội đã lâu rồi.

Làng tôi lâu rồi không có hội!

Chủ Nhật, 25 tháng 9, 2016

Người đàn ông nói về mình (ở tuổi 43)

Trần Vàng Sao

1. tôi tuổi tỵ
năm nay bốn mươi ba tuổi
thường không có một đồng trong túi
buổi sáng buổi chiều
thứ hai thứ ba thứ bảy chủ nhật
trong nhà ngoài sân với hai đứa con
cây cà cây ớt
con chó con mèo
cái đầu gãy cái tay gãy của con búp bê
cọng cỏ ngọn lá vú sữa khô
thúng mủng chai chén sách vở quần áo mũ nón cuốc rựa trên ghế dưới bàn
hai ba ngày một tuần một tháng có khi không đi đâu hết
một hai ba giờ sáng thức dậy ngồi vác mặt ngó trời nghe chó sủa
miếng nước trà mốc nguội có mùi bông lài rát cổ
cũng không có chi phiền
vấn một điếu thuốc hút
hai ba lần tắt đỏrồi nửa chừng rách giấy
bạn bè gặp nhau
cho uống một ly cà phê
một lần
qua hai lần phải tránh
không phải ai cũng nghĩ như mình
nhiều đứa vui gặp nhau cho năm ba đồng một chục
đưa tay cầm lấy
miệng nói không được
2. tôi thấy tôi như người tù được thả rông
lang thang giữa đường giữa phố
nhìn hết mọi người
xem mình lâu ngày mặt mũi có khác người không
tôi đi lui
tôi đi tới
phố phường đông chật
tiếng cười tiếng la tiếng nói tiếng xe cộ
chẳng có ai quen thử nói chào tôi một tiếng
tôi đưa hai tay lên đầu vuốt tóc
lấy chân hất một hòn đá
cúi xuống nhìn mấy bao thuốc không bên lề đường
rồi đi về
qua cầu dép sút một quai
tôi không muốn nhớ gì hết
3. tôi ngồi trên hòn đá trước nhà
buổi chiều không có một con chim đậu trên cây
đám trẻ con chia phe bắn nhau cười la ngoài sân
đứa sống đứa chết cãi nhau ăn gian chưởi thề
những người đi bán về nói chuyện tiếng to
hai đứa nhỏ nhà bên cạnh cầm đèn che miếng lá chuối qua xin lửa hỏi tôi chưa nấu cơm tôi cười lắc đầu muốn đi ngủ
trong gió có mùi rơm cháy
tôi không biết làm gì hết
tôi bỏ hai chân ra khỏi dép cho mát
đám trẻ con bỏ chơi chạy theo phá đàn trâu bò đi qua
tôi bước vào nhà mở rộng hai cánh cửa lớn thắp một cây đèn để lên bàn thờ
hai đứa con ra ngoài đường chờ mẹ chưa về
rời còn lâu mới tối
tôi đi gánh một đôi nước uống
4. tôi sống yên ổn với những việc làm hàng ngày ở nhà của mình
không định được ngày mai
có một đồng để mua cho con nửa cái bánh tráng hay hai cái kẹo gừng
có hai đồng cất dưới chân đèn trên bàn thờ lỡ khi hết dầu thắp tới bữa thiếu ruốc hết bột ngọt
mả cha cuộc đời quá vô hậu
cơm không có mà ăn
ngó lui ngó tới không biết thù ai
những thằng có thịt ăn thì chẳng bao giờ ỉa vất
5. lâu ngày tôi thấy quen đi
như quen thân thể của mình
tiếng ho gà nửa đêm của những đứa bé chưa đầy hai tuổi buổi chiều không có cơm ăn
những con ruồi ăn nước mũi khô trên má những đứa đau quan sát
những con chuột chết lòi ruột ở bến xe đò
những tiếng cha mẹ vợ chồng anh em con cái chưởi bới la hét trong bữa ăn
người điên ở trần đứng làm thinh giữa trời mưa ngoài chợ
những ngày hết gạo hết tiền hết củi muối sống không còn một hột của tôi
những trách canh rau khoai tháng năm không có bột ngọt
hai mắt tôi mở to
đầu tôi cúi thấp
miệng tôi há ra
những lá khoai nhám và rít mắc vài hột cơm dồn cứng chật cuống họng
nói thật lúc này tôi muốn được say rượu
hoạ may thấy một đồng thành ba bốn đồng
6. nhiều khi tôi quá chán
chân tay rã rời
đầu óc đau nhức
không muốn làm gì hết
mấy đứa nhỏ chơi buôn bán bỏ đi đâu không biết để đất đá lá cây đầy nhà
tôi dựa cửa ngồi yên một chỗ
dụi mắt nghĩ hết chuyện này tới chuyện khác
nói chi tới những đứa đã chết trên rừng giữa phố
bạn bè có đứa giàu có đứa nghèo
đứa nguỵ đứa cách mạng
đứa tiền của ăn tiêu mấy không hết
đứa không có được một cái áo lành
đứa đi kinh tế mới ba bốn bảy tám năm trở về xách một cái bị lác
mặt cắt không có hột máu
đứa đạp xe thồ ngồi vắt chân ăn củ sắn chờ khách ở bến xe
đứa vô tích sự ở nhà không có việc chi làm
có đứa râu tóc dài che kín mặt
có đứa tàn không nhớ mình tên chi
có đứa chịu không nổi dắt vợ con vào nam ăn chợ ngủ đường
mỗi lần gặp nhau mở to mắt cười hút một điếu thuốc lắc đầu
hết chuyện nói
hai đứa con đi chơi về cười nói
đứa nhỏ bắt tôi đánh trống cho nó làm ông địa múa thiên cẩu
cái trống lon mặt ni lông và hai chiếc đũa tre
tôi đánh
múa đi các con
này đây cái nón gãy vành làm đầu thiên cẩu
và sợi dây chuối treo ngọn lá làm tiền
múa đi các con
cái bụng ông địa to tròn giơ lỗ rún gài nút áo không được
ông địa chống tay vỗ bụng ngửa mặt lên trời cười ha ha
tôi vỗ tay hoan hô
và không biết mình có nhớ ra được cái mặt ông địa không
Tháng 9-1984


Thứ Sáu, 9 tháng 9, 2016

HẠNH PHÚC MỘT TANG GIA

Tôi vô phép lấy cái tít của một chương trong Số Đỏ của cụ Vũ Trọng Phụng để đặt tên cho chuyện kể dưới đây.
Ấy là tôi có anh bạn, chẵn năm mươi mùa lá rụng mà chẳng vợ con gì ráo trọi. Anh không phải dạng “ ẩm IC” do nấm mốc vùng bộ hạ hay “ chập mạch” do quạt trần rơi vào đầu, càng không phải nghèo hèn hay đốn mạt. Trái lại, anh trí tuệ, hào hoa, đóng chức đầu lãnh của một doanh nghiệp nhà nước hạng ruồi.
Nhà anh ba đời độc đinh. Sự thể ấy như là định mệnh nên đến đời anh thời muốn hoán cải nó đi chăng? Thì bằng chứng là anh chẳng thèm lấy vợ đấy thôi. Anh sống bằng an với ông bố tròm trèm tám mươi trong căn nhà rộng có nhiều ban-công trổ ra rất khéo nơi phố hẹp.
Tôi thi thoảng hay bia hơi thịt chó cùng anh. Cứ đến đận ngà ngà là hay la đà gợi chuyện vợ chồng con cái nhưng anh tuyền gạt đi, bảo một mình quen rồi, dan díu vào thời vướng víu. Tôi tin anh thật thà và cũng có thể anh là một tín đồ của chủ nghĩa độc thân nhưng lắm khi nghĩ đi nghĩ lại cũng thấy thế nào. Người như anh chả vợ con gì kể ra cũng hơi phí của.
Hôm lận bâu được chút tiền còm tôi gọi anh đi đổi món, nâng cấp bia hơi thịt chó lên vang đỏ thịt bò, nhưng anh bảo bố anh mất, không đi được. Tôi lấy làm xót xa nên có dài dòng văn tự mà an ủi và ngỏ ý đến phúng điếu chia buồn. Anh gạt đi, rằng có gì sẽ thông báo. Giọng điệu anh nghe tỉnh táo lắm, chả có chút gì gọi là bối rối tang gia.
Chẳng có thông báo gì ráo nên tôi phải canh me đúng dịp cúng ba ngày mà gọi điện. Phía đầu giây bên kia ồn ào lắm. Thay cho lời chào thì tôi hỏi, đang làm ba ngày à? Anh bảo không, đang bia hơi trên phố, rảnh chạy lên đây uống cho vui. Tôi hơi chột dạ. Quái lạ cái nhà ông này. Bố chết mà cứ như không.
Mãi sau này tôi mới hiểu chuyện, rằng việc bố anh mất là sự thật nhưng cái làm tôi không tin là anh lẳng lặng thuê xe chở xác ông cụ đi hỏa thiêu rồi cất bốc tro cốt bỏ lọ mang lên công viên Vĩnh Hằng chôn lấp. Về cái chết của bố anh, tôi luôn có cảm giác là ông cụ đang nằm trên giường thời chuyển xuống nằm xuống đất vậy, nhẹ nhàng như cú trở mình hụt hẫng ban mai.
Anh thuyết, rằng độc đinh nên chả có anh em, lối phố thời chật chội, bạn bè bận làm bận ăn thì cái việc tang ma rình rang là không cần thiết. Vì một chút nghĩa tử nghĩa tận mà gây ra nhiều những phiền lụy lại càng rất không nên. Vả lại bố anh chết rất “đúng quy trình” của cái gọi là sinh – lão – bệnh – tử. Vậy thì hà cớ gì cứ phải rùm beng? Tôi nghe cái lý sự của anh mà ngao ngán cho cái nết văn minh ấy lắm. Nhưng anh bảo việc này không do anh nghĩ ra mà là di chúc bố anh để lại. Ông cụ muốn ra đi yên lành như thế và cái chính là thương anh một mình vất vả lo chuyện tang ma nhiễu sự.
Sẽ chẳng nhiều ai biết việc bố anh ra đi. Lối phố dường như cũng thế. Và quan trọng là anh rất vui vẻ và luôn có cảm giác ông cụ vẫn lẩn khuất đâu đó trong nhà, có trống vắng chăng cũng chỉ là đi chơi đâu xa ít bữa.
Mấy hôm nay tôi mất ngủ bởi sát vách có người già ra đi vì tuổi tác. Ngõ xóm lúc nào cũng rầm rập tiếng chân người và những điệu bi ai của phường bát âm não nuột. Sự thể ấy kéo dài hơn mức bình thường bởi nghe đâu còn chờ đám con cháu ở xa về.
Thôi thì thức một chút để cho người ngủ giấc thiên thu an lành vậy.