Bài của
Nguyễn Thanh Sơn.
Ảnh chỉ mang tính minh họa nhằm tôn vinh nét hay ho của sự hở hang đến thô bỉ của sự đời,
nên chả liên quan éo gì đến bài viết đâu nhé các con ợn...
Năm 1994, về
nước, tôi được nhận vào làm thực tập tại tiểu ban Tin Tham Khảo, thuộc Ban Quốc
tế của Thông tấn xã Việt Nam (một số bạn hẳn còn nhớ, ở thời điểm đó, hàng ngày
Thông tấn xã Việt Nam phát hành hai bản tin tham khảo sáng-chiều có đóng dấu
“mật- tài liệu không phổ biến”). Tiểu ban của chúng tôi có mười mấy người, do
anh Hà Minh Huệ mới từ phân xã New York trở về làm trưởng tiểu ban (anh Huệ
hiện đang giữ chức Phó chủ tịch thường trực Hội nhà báo Việt Nam, Phó Tổng giám
đốc Thông tấn xã Việt Nam).
Mặc dù mang tiếng
làm việc ở Ban Quốc tế của Thông tấn xã, nhưng công việc của chúng tôi chỉ đơn
giản là dịch lại tin tức từ các bản tin của các hãng thông tấn nước ngoài như
AP, UPI, Reuter…được chuyển về bằng máy telex (hồi đó chưa có Internet và máy
fax cũng rất hạn chế). Cứ đầu giờ sáng, anh Huệ qua phòng telex lấy tin, mang
về xé cho chúng tôi mỗi người một mảnh cặm cụi ngồi dịch, sau đó chừng 10h sáng
thì nộp cho anh Huệ để làm bản tin chiều, đầu giờ chiều lại nhận tin để dịch,
tới 3h30 chiều nộp làm bản tin sáng. Anh Huệ là người thày đầu tiên trong quãng
đời nghề báo ngắn ngủ của tôi, người cặm cụi sửa cho tôi từng lỗi dịch sai,
từng dấu chấm câu. Tôi còn nhớ, sau nhiều ngày hùng hục làm việc, một buổi
chiều, anh Huệ rất hớn hở cầm một tập bản tin tới bàn làm việc của tôi khoe:
“tin em dịch được đăng rồi đây này!”. Tôi run bắn lên vì hồi hộp, nhưng khi
nhìn thấy bản in thì lại thất vọng tràn trề: toàn bộ bài báo tôi dịch đã bị cắt
còn lại đúng năm dòng, thông báo về việc một nhóm cựu binh Mỹ tới bờ biển Đà
Nẵng tổ chức lướt sóng!
Suốt thời gian
làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, tôi học được hai bài học chính về nghề báo
ở Việt Nam. Bài học thứ nhất- đừng làm ngôi sao, hãy viết như mọi người! Tôi
rất ngạc nhiên khi những bài báo tôi dành tâm huyết để nghiên cứu, tìm cách
diễn đạt đặc sắc lại là những bài báo không bao giờ qua được cửa biên tập,
trong khi những bài báo vô thưởng vô phạt, được viết ra một cách qua quít cẩu
thả lại được khen ngợi. Chúng tôi thường đùa nhau, cơ quan của chúng tôi giỏi
nhất việc vo tròn phong cách viết của mọi người, là cái lò tạo ra những sản
phẩm dập khuân.
Bài học thứ hai
tôi học được sau ba tháng làm việc đầu tiên, khi tôi được anh Huệ biểu dương ở
cuộc họp chung ở tiểu ban về thái độ và hiệu suất làm việc. Lý do là thông
thường, chúng tôi chỉ phải dịch tin đến 10h sáng, sau đó có thể nghỉ ngơi, đọc
báo, uống trà hay tán láo cho đến lúc ăn trưa. Nhưng tôi thường chỉ mất hơn một
tiếng để dịch một tin, nên đến 9.30 đã xong phần việc của mình và tiện tay dịch
thêm vài tin nữa, kết quả là nhiều khi tới giờ ăn tôi vẫn cặm cụi ngồi làm. Sau
buổi họp, mấy chị lớn tuổi hơn nửa đùa nửa thật nói với tôi “này, buổi trưa chị
còn phải đi đón con, giặt quần áo, đi chợ, nên cậu đừng có phấn đấu làm chiến
sĩ thi đua như thế sếp cứ lấy cậu là làm gương là chết bọn chị”. Hóa ra nếu bạn
không muốn vừa phải làm thêm nhiều việc, vừa bị mọi người ghét, thì chỉ viết
giống như mọi người chưa đủ, bạn còn phải làm việc giống mọi người nữa. Khi tôi
biết cách mỗi buổi chỉ dịch một tin, thời gian còn lại đọc báo, uống trà và tán
láo giống như mọi người, không khí trong tiểu ban đối với tôi thay đổi hẳn,
thân thiện hơn trước rất nhiều, chỉ có anh Huệ là cười cười nói “mày học nhanh
quá”.
Mười bảy năm sau
ngày tôi rời khỏi Thông tấn xã Việt Nam, báo chí Việt Nam đã có những thay đổi
lớn. Với gần 800 tờ báo và tạp chí, hàng chục đài truyền hình trung ương và địa
phương, hơn một trăm kênh truyền hình đang được phát sóng, báo chí Việt Nam,
cũng giống như xã hội Việt Nam, đang loay hoay trong một giai đoạn bản lề.
Nói đến báo chí
Việt Nam, trước tiên phải nói đến sự khác biệt của nó đối với báo chí ở bên
ngoài. Một trong những đặc điểm đầu tiên tôi đã có dịp đề cập ở trên, đó là vấn
đề uy tín. Ở những quốc gia mà tôi có dịp tới học tập hay làm việc, báo chí-
trừ những tờ báo in hay kênh truyền hình cực kỳ lớn- phần lớn bị coi là “rác
rưởi”. Cạnh tranh gay gắt về thông tin, sự hùng hậu của báo lá cải khiến cho sự
cạnh tranh trong giới truyền thông trở nên hết sức khốc liệt, và người ta không
từ một thủ đoạn nào để có được thông tin. Uy tín và sự tin cậy dành cho phóng
viên ở mức đặc biệt thấp, và mỗi một cuộc phỏng vấn đối với lãnh đạo của các
thương hiệu hay công ty là một cuộc đấu trí thực sự. Trong khi đó, báo chí Việt
Nam, đặc biệt trong giai đoạn trước, được công chúng coi trọng- dù dưới tư cách
là kênh phát ngôn chính thức của các cơ quan thuộc Đảng và nhà nước, hay dưới
tư cách phản biện của tiếng nói quần chúng lao động.
Trên phương diện
phát ngôn chính thức (“là tiếng nói của…”, “là cơ quan ngôn luận của…”-được in
rõ ràng trên manchette báo), báo chí Việt Nam thường được chia thành ba nhóm:
báo chí nhóm một, báo chí nhóm hai và báo chí nhóm ba. Nhóm một là những cơ
quan báo chí quan trọng nhất như báo Nhân Dân, đài truyền hình Việt Nam, đài
phát thanh tiếng nói Việt Nam và Thông tấn xã Việt Nam.
Báo chí nhóm hai
là báo chí thuộc chính quyền và đảng bộ địa phương hay các tổ chức chính trị xã
hội cấp Trung ương như Hà nội mới, Đài truyền hình Hà nội, Sài gòn Giải phóng,
Thanh Niên hay Lao Động…
Báo chí nhóm ba
là các báo, tạp chí hay bản tin còn lại. Tuy có vai trò quan trọng trong việc
“định hướng dư luận”, nhưng trừ truyền hình, còn các báo in thuộc nhóm một và
hai lại có lượng người đọc ít hơn so với báo chí nhóm ba (tất nhiên cũng có
những trường hợp ngoại lệ, ví dụ như báo T.T, tờ nhật báo lớn nhất và có uy tín
nhất cả nước, lại chỉ được coi là báo chí nhóm ba).
Chính vì chức
năng “tuyên truyền cho các chính sách của Đảng và Nhà nước” cũng như vai trò
“định hướng dư luận” được coi là chính yếu, nên không có gì đáng ngạc nhiên khi
trình độ chuyên môn về thông tin của báo chí Việt Nam chưa thể so sánh với báo
chí khu vực, chưa nói gì đến báo chí trên thế giới. Trong một giờ lên lớp, khi
tôi đề nghị các sinh viên của tôi (đang theo học năm thứ ba của khoa báo chí
trường Đại học Xã hội và Nhân văn) thử viết một tin ngắn chừng hai trăm chữ về
thông tin một công nhân bị tai nạn ngã chết trên công trường xây dựng, khai
thác thông tin này trên mười hướng khác nhau, tôi rất ngạc nhiên khi tuyệt đại
đa số họ không hiểu được thế nào là “khai thác trên mười hướng”, thậm chí chỉ
trên khía cạnh một tin vắn thông thường, họ cũng chưa viết được.
Thực ra, nếu bạn
nhìn vào giáo trình giảng dạy cho sinh viên báo chí, bạn sẽ không thể trách họ
được, nhất là khi bạn biết, phần lớn giáo viên giảng dạy tại khoa báo chí lại
chưa từng được làm báo theo đúng nghĩa của nó, mà chủ yếu hoặc nghiên cứu về
lịch sử báo chí tại các trường đại học thuộc Liên xô cũ, Cu-ba hay Đông Đức,
hoặc được chuyển từ khoa Ngữ văn sang. Các tờ báo buộc phải đào tạo lại các
phóng viên theo kiểu truyền nghề, từ kinh nghiệm thực tế (như anh C.K của báo
S.G.T.T phải tự soạn ra một cuốn sách lấy tên là “Những gì họ không dạy bạn ở
trường báo chí” để huấn luyện lại cho phóng viên) nên thỉnh thoảng lại có một
đợt sóng trồi sụt về chất lượng của báo chí khi những phóng viên lâu năm nghỉ
việc hoặc chuyển sang làm việc ở tờ báo khác.
Báo chí Việt Nam
hình thành một số nét đặc biệt khác, mà tôi tạm gọi là “văn hóa” để so sánh nó
với báo chí quốc tế. Đầu tiên là văn hóa “báo không thể sai”. Ở các nước khác,
trước khi đến được với người đọc, thông tin thường phải trải qua một quá trình
kiểm tra chéo nghiêm ngặt để đảm bảo tính trung thực và khách quan của nó, và
nguồn tin thường được phân cấp về mức độ tin cậy (nguồn tin cấp một- nhận trực
tiếp từ nguồn, được tiếp cận văn bản; nguồn tin cấp hai –nhận trực tiếp từ
nguồn, không được tiếp cận văn bản; nguồn tin cấp ba- thông tin nhận qua trung
gian, không được tiếp cận văn bản…vv).
Trong khi đó, ở
Việt Nam, các tờ báo rất ít khi đưa việc kiểm tra chéo thông tin như một qui
trình bắt buộc của tác nghiệp báo chí, nên lấy lý do báo sắp ra nhà in, thông
tin cần đưa ngay, người ta khá thoải mái trong việc cung cấp các nguồn tin
thiếu kiểm chứng. Ngay cả khi đưa tin không đúng sự thật, báo chí Việt Nam cũng
rất hiếm khi xin lỗi hay đăng thông tin cải chính- mặc dù luật báo chí có qui
định về việc này.
Thiếu sự đòi hỏi
nghiêm ngặt về tính chính xác của thông tin sẽ dẫn đến thiếu cạnh tranh gay gắt
về thông tin, nên báo chí Việt Nam hình thành một văn hóa “chia sẻ”, trái ngược
hoàn toàn với văn hóa “độc quyền” của báo chí nước ngoài. Ở Việt Nam, thông tin
có thể được các phóng viên làm việc ở các tờ báo khác nhau chia sẻ với nhau, và
các phóng viên ở các tờ báo khác nhau hoàn toàn thoải mái khi cùng ngồi trao
đổi hoặc phỏng vấn đại diện của một công ty.
Các phóng viên
viết cùng một lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, giáo dục hay y tế hình thành các
nhóm chơi với nhau khá thân thiết, và có rất ít cạnh tranh về thông tin giữa họ
với nhau. Điều này là trái ngược hoàn toàn với báo chí phương Tây, nơi phóng
viên của các tờ báo luôn luôn dè chừng, cảnh giác với phóng viên của các tờ báo
khác mà họ coi là đối thủ cạnh tranh trực tiếp, và hầu như không có chuyện họ
lại chơi với nhau theo nhóm.
Văn hóa chia sẻ
này khiến cho những khái niệm như “ dành riêng cho…” (exclusive…) hầu như ít
tồn tại ở Việt Nam, và “đặc quyền tiếp cận” không còn là một công cụ hữu hiệu
của quan hệ công chúng (“đặc quyền tiếp cận” là một công cụ của quan hệ công
chúng, khi bạn cung cấp quyền tiếp cận thông tin hoặc nguồn tin chỉ dành riêng
cho một phóng viên hay một tờ báo, do đó tạo giá trị cho riêng tờ báo hay phóng
viên đó). “Văn hóa chia sẻ”, cộng thêm với văn hóa “đừng làm ngôi sao” khiến
cho các bài viết thường na ná như nhau, ít có bản sắc riêng của người viết, và
đặc biệt khi đã có thông cáo báo chí được soạn sẵn, thì việc các bài báo với
nội dung giống nhau xuất hiện trên vài ba chục tờ báo là điều thường xuyên xảy
ra. “Văn hóa chia sẻ” cũng khiến cho các tin xấu lan đi rất nhanh, và hầu như
rất khó làm cái điều mà nhiều khách hàng của chúng tôi đòi hỏi-“bịt” tin xấu
lại không cho phát tán ra ngoài. Khi các phóng viên quyết định “đánh” một vấn
đề gì đó, họ cũng thường phát động “chiến tranh tổng lực” hay “chiến tranh
trường kỳ” dựa trên sự chia sẻ thông tin trong nhóm.
“Văn hóa chia sẻ”
của báo chí Việt Nam lại dẫn đến văn hóa “báo không ăn thịt báo”- báo chí Việt
Nam rất e ngại trong việc đưa ra những thông tin ngược lại với thông tin đã
được đăng tải trên “các báo bạn”, cho dù biết rằng những thông tin đó có thể
không chính xác. Phần lớn trường hợp, họ chỉ dùng thái độ im lặng của mình để
phản ứng thông tin sai lệch, mà hầu như không bao giờ trực tiếp đứng ra chỉ
trích tính tin cậy hay công khai thách thức tính xác thực các bài báo của đồng
nghiệp. Có một sự “ngầm định” khi có ai đó có ý định thách thức văn hóa “báo
không thể sai” của báo chí Việt Nam.
Một nét văn hóa
nữa chúng ta có thể nhận rõ trong thời gian vừa qua, đó là văn hóa “lề trái” và
“lề phải” của báo chí Việt Nam- rất nhạy cảm về mặt chính trị, có các qui tắc
và “cấm kỵ” bất thành văn và chịu sự kiểm soát chặt chẽ về mặt nội dung của các
cơ quan chính quyền và tổ chức Đảng. Chuyên gia quan hệ công chúng phải nắm
được “văn hóa lề phải”: các định hướng tuyên truyền và các chính sách chính
trị, xã hội kinh tế trọng tâm, từ đó khéo léo lồng ghép vấn đề của mình cho phù
hợp với chính sách đó, đồng thời phải hiểu được “văn hóa lề trái” những mối
quan tâm và bức xúc của quần chúng, phản ánh thông qua báo chí, hiểu được ranh
giới mong manh giữa hai lề và sự tế nhị của các tổng biên tập khi phải giữ một
khoảng cách vừa phải với cả hai lề.
Một đặc điểm nữa
của báo chí Việt Nam là văn hóa đồng dạng. Phần lớn các báo hay chương trình
truyền hình của Việt Nam có nội dung tương tự như nhau, và không có sự khác
biệt quá nhiều về “thương hiệu” báo chí như các tờ T.T, T.N, L.D, N.L.D…Báo chí
chuyên ngành ở Việt Nam còn chưa phát triển, nội dung nghèo nàn, chất lượng bài
viết không cao và lượng người đọc thấp. Đây là thiệt thòi lớn đối với ngành
quan hệ công chúng, vì quan hệ công chúng chủ yếu tác động đến những nhóm đối
tượng nhỏ và chuyên biệt (ví dụ như các nhà khoa học, các chuyên gia một ngành
khoa học cụ thể, các chính trị gia..vv) mà báo chí chuyên ngành, ở các nước
khác, lại là công cụ đắc lực để tác động đến nhóm đối tượng này. Lý do chủ yếu,
có lẽ là, thói quen nghiên cứu vấn đề của mình một cách nghiêm túc và khoa học
chưa được hình thành ở Việt Nam. Khi các chuyên gia không có thói quen tổng kết
những vấn đề mà mình nghiên cứu hay theo dõi, trình bày cho công chúng hay đồng
nghiệp của mình dưới dạng các bài viết hay công trình có giá trị thực tiễn, thì
sẽ khó có đất cho sự phát triển của báo chí chuyên ngành.
Trong rất nhiều
cuộc hội thảo về nghề báo và mối quan hệ giữa quan hệ công chúng và báo chí
Việt Nam, có một câu hỏi thường xuyên được nhắc tới, đó là “văn hóa phong bì”.
Tôi cố giải thích cho các khách hàng của chúng tôi, những khách hàng bị ràng
buộc bới Điều luật về chống hối lộ các cơ quan và tổ chức nhà nước (báo chí
Việt Nam, do nhà nước sở hữu và quản lý, nằm trong phạm vi của điều luật này),
nguồn gốc của văn hóa này.
Năm 1988, khi tôi
rời khỏi Việt Nam, tôi đang nhận tiêu chuẩn tem phiếu hạng N (Nhân dân). Tiêu
chuẩn này cung cấp cho tôi hàng tháng một khẩu phần là 13 kg gạo (được tăng lên
18 kg khi tôi vào học đại học), 100 gram thịt (có giá trị chuyển đổi sang 200
gram sườn hay 150 gram mỡ), 500 gram đường và 0.5 lít nước chấm. Với các tiêu
chuẩn tem phiếu khác (A-B cho cấp Bộ/Thứ trưởng, C cho cấp Vụ trưởng, D-E cho
cấp trưởng phòng, chuyên viên, cán sự), khẩu phần có khá hơn, nhưng tựu trung
cũng vẫn là một khẩu phần chết đói. Để giúp cán bộ của mình có thể tồn tại mà
không suy nhược đến chết, các cơ quan nhà nước phải có “kế hoạch 3”, bằng mọi
cách tăng khẩu phần ăn cho cán bộ của mình.
Tuy vậy, danh
chính ngôn thuận các “quĩ đen” như vậy không được công nhận, và phân chia các
quĩ như vậy cũng rất phức tạp. Cách chia đơn giản nhất là ở các cuộc họp, mỗi
người dự họp được phát một cái phong bì, trong đó có một số tiền nhỏ.
Cứ như vậy, hình
thành một thói quen, thậm chí là một văn hóa, đó là khi tới dự các cuộc họp,
các đại biểu đều được phát một phần quà nhỏ hoặc một phong bì có tiền. Khi tôi
làm việc ở Thông tấn xã, chúng tôi có một quĩ nhỏ, do đóng góp của cán bộ trong
ban đang làm việc ở các phân xã nước ngoài, quà của địa phương khi chúng tôi đi
công tác..vv tất cả được cho vào một “quĩ đen” được dùng vào các việc hiếu, hỉ,
thăm nom người ốm và, chia đều cho các cán bộ của tiểu ban dưới dạng phong bì
trong các cuộc họp. “Miếng bít-tết mà quí vị đang ăn trong bữa trưa nay”- tôi
thường nửa đùa nửa thật nói với họ-“gấp đôi số thịt mà tôi được ăn trong cả
tháng, cho nên đừng giận dữ khi chúng tôi bắt buộc phải tìm cách để tồn tại”.
Phần lớn các bạn có lẽ còn nhớ câu nói quen thuộc của thời đó “nhà văn-nhà
báo-nhà giáo= nhà nghèo”.
Chính vì hiểu
được lý do bắt nguồn của văn hóa đó, nên trong một thời gian dài, tôi không cảm
thấy có vấn đề gì khi trong các cuộc họp báo, các phóng viên nhận một phong bì
với một số tiền nhỏ. Chúng tôi coi số tiền nhỏ đó là số tiền bù cho chi phí
xăng xe đi lại của phóng viên, những thứ chúng tôi biết tòa soạn sẽ không bao
giờ hoàn trả ngược lại cho họ. Dù có nhận phong bì đó, phóng viên cũng không có
bất cứ một trách nhiệm nào về nội dung bài viết, về thái độ trong cuộc họp
báo…vv.
Điều đáng tiếc
là, cùng với thời gian, văn hóa phong bì đã bị biến tướng bới một số công ty
quan hệ công chúng hay một số khách hàng coi việc “mua bài” của phóng viên là
công việc chính của chuyên gia quan hệ công chúng.
Các phóng viên đã
tức giận kể cho tôi nghe, trong buổi họp báo của một công ty kinh doanh bất
động sản, người phát ngôn của công ty đã viết lên bảng số fax của công ty mình
và bảng giá của các bài viết- hỡi các phóng viên, hãy fax bài viết của bạn tới
cho chúng tôi và chúng tôi sẽ trả tiền cho các bạn dựa vào nội dung ca ngợi của
bài viết! Chúng tôi sẽ đếm chữ để trả tiền, các bạn hãy cố gắng lên! Cho dù làm
các nhà báo chân chính tức giận, không thể thừa nhận rằng có một số nhà báo đã
bị ảnh hưởng, và “phong bì” trở thành nguồn thu nhập chính của họ, đặc biệt là
khi tờ báo không đủ sức nuôi sống họ. Cho nên, chúng tôi đã gặp cả hai trường
hợp, khi thì có phóng viên kiên quyết không nhận phong bì có số tiền nhỏ kia,
lúc lại có phóng viên thẳng thừng hỏi sao không trả tiền cho họ “kiếm chút
cháo” khi mà chúng tôi đã lấy tiền từ khách hàng để “có cơm ăn”.